Network Load Balancing

Published on February 2017 | Categories: Documents | Downloads: 63 | Comments: 0 | Views: 317
of 9
Download PDF   Embed   Report

Comments

Content


Network Load Balancing 1

Contents
1. Tổng quan về Network Load Balancing: .............................................................................................. 1
2. Kiến trúc hệ thống cân bằng tải ............................................................................................................ 2
3. Phân phối lưu lượng trong nhóm .......................................................................................................... 3
4. Thuật toán cân bằng tải ......................................................................................................................... 5
5. Quá trình hội tụ ..................................................................................................................................... 7
6. Điều khiển từ xa .................................................................................................................................... 8
7. Hiệu năng cân bằng tải .......................................................................................................................... 8
8. Thông lượng và thời gian đáp ứng yêu cầu ........................................................................................... 8


1. Tổng quan về Network Load Balancing:
Server đang là nền tảng phân phối các ứng dụng quan trọng, thường xuyên và rộng khắp
như Web, Streaming media, VPN. Như một phần tích hợp của Windows Advanced
Server và Datacenter Server, Network Load Balancing (NLB) cung cấp một giải pháp lý
tưởng, kinh tế để tăng cường tính khả mở và khả dụng cho các ứng dụng trên cả môi
trường Internet và intranet.
NLB mở rộng hiệu năng của các server ứng dụng, chẳng hạn như Web server, nhờ phân
phối các yêu cầu của client cho các server trong nhóm (cluster). Các server (hay còn gọi
là host) đều nhận gói IP đến, nhưng gói chỉ được xử lý bởi một server nhất định.

Các host trong nhóm sẽ đồng thời đáp ứng các yêu cầu khác nhau của các client, cho dù
một client có thể đưa ra nhiều yêu cầu. Ví dụ, một trình duyệt Web cần rất nhiều hình ảnh
trên một trang Web được lưu trữ tại nhiều host khác nhau trong một nhóm server. Với kỹ
thuật cân bằng tải, quá trình xử lý và thời gian đáp ứng client sẽ nhanh hơn nhiều.
Mỗi host trong nhóm có thể định ra mức tải mà nó sẽ xử lý hoặc tải có thể phân phối một
cách đồng đều giữa các host. Nhờ sử dụng việc phân phối này, mỗi server sẽ lựa chọn và
xử lý một phần tải của host. Tải do các client gửi đến được phân phối sao cho mỗi server
nhận được số lượng các yêu cầu theo đúng phần tải đã định của nó.
Network Load Balancing 2

Sự cân bằng tải này có thể điều chỉnh động khi các host tham gia vào hoặc rời khỏi
nhóm. Đối với các ứng dụng như Web Server, có rất nhiều client và thời gian mà các yêu
cầu của client tồn tại tương đối ngắn, khả năng của kỹ thuật này nhằm phân phối tải
thông qua ánh xạ thống kê sẽ giúp cân bằng một cách hiệu quả các tải và cung cấp khả
năng đáp ứng nhanh khi nhóm server có thay đổi.
Các server trong nhóm cân bằng tải phát đi một bản tin đặc biệt thông báo trạng thái hoạt
động của nó (gọi là heartbeat message) tới các host khác trong nhóm đồng thời nghe bản
tin này từ các khác host khác. Nếu một server trong nhóm gặp trục trặc, các host khác sẽ
điều chỉnh và tái phân phối lại tải để duy trì liên tục các dịch vụ cho các client.
Trong phần lớn các trường hợp, phần mềm client thường tự động kết nối lại và người sử
dụng chỉ cảm thấy trễ một vài giây khi nhận được đáp ứng trả lời.
2. Kiến trúc hệ thống cân bằng tải
Để tối đa hoá thông lượng và độ khả dụng, công nghệ cân bằng tải sử dụng kiến trúc phần
mềm phân tán hoàn toàn, trình điều khiển cân bằng tải được cài đặt và chạy song song
trên tất cả các host trong nhóm. Trình điều khiển này sắp xếp tất cả các host trong nhóm
vào một mạng con để phát hiện đồng thời lưu lượng mạng đến địa chỉ IP chính của nhóm
(và các địa chỉ bổ sung của các host ở nhiều vị trí khác nhau).
Trên mỗi host, trình điều khiển hoạt động như một bộ lọc giữa trình điều khiển card
mạng và chồng giao thức TCP/IP, cho phép một phần lưu lượng mạng đến được nhận bởi
host đó. Nhờ đó, các yêu cầu của client sẽ được phân vùng và cân bằng tải giữa các host
trong nhóm.
Hệ thống cân bằng tải chạy như một trình điều khiển mạng (về mặt logic) nằm dưới các
giao thức lớp ứng dụng như HTTP hay FTP. Kiến trúc này tối đa hoá dung lượng nhờ
việc sử dụng mạng quảng bá để phân phối lưu lượng mạng đến tất cả các host trong nhóm
và loại bỏ sự cần thiết phải định tuyến các gói đến từng host riêng lẻ.
Do thời gian lọc các gói không mong muốn diễn ra nhanh hơn thời gian định tuyến các
gói (định tuyến bao gồm các quá trình nhận gói, kiểm tra, đóng gói lại và gửi đi), kiến
trúc này cung cấp thông lượng cao hơn các giải pháp dựa trên bộ điều phối. Khi tốc độ
của mạng và server tăng lên, thông lượng cũng tăng theo tỉ lệ thuận, do đó loại bỏ được
bất cứ sự lệ thuộc nào vào việc định tuyến dựa trên các phần cứng đặc biệt.
Trên thực tế, bộ cân bằng tải có thể đạt thông lượng 250Mbit/s trong các mạng Gigabit.
Một ưu điểm cơ bản khác của kiến trúc phân tán hoàn toàn là độ khả dụng được tăng
cường với (N-1) cách khắc phục lỗi trong một nhóm có N host. Các giải pháp dựa trên bộ
Network Load Balancing 3

điều phối tạo ra một điểm lỗi kế thừa mà chỉ có thể được khắc phục bằng cách sử dụng
một bộ điều phối dự phòng và do đó chỉ cung cấp một cách khắc phục lỗi duy nhất.
Kiến trúc cân bằng tải cũng tận dụng được những ưu điểm về kiến trúc các thiết bị
chuyển mạch (switch) hoặc các bộ tập trung (hub) của mạng con trong việc đồng thời
phân phối lưu lượng mạng đến tất cả các host trong nhóm.
Tuy nhiên, phương pháp này làm tăng "tải trọng" trên các chuyển mạch do chiếm thêm
băng thông cổng. Đây không phải là vấn đề trong phần lớn các ứng dụng như dịch vụ
Web hay streaming media, do tỉ lệ lưu lượng đến chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng
lưu lượng mạng.
Tuy nhiên, nếu các kết nối mạng phía client đến thiết bị chuyển mạch có tốc độ nhanh
hơn nhiều các kết nối phía server, lưu lượng có thể chiếm một tỉ lệ lớn quá mức cho phép
của băng thông cổng phía server. Vấn đề tương tự sẽ gia tăng nếu nhiều nhóm kết nối
trên cùng một thiết bị chuyển mạch và các biện pháp thiết lập các mạng LAN ảo cho từng
nhóm không được thực hiện.
Trong quá trình nhận gói, việc triển khai của NLB là sự kết hợp giữa việc phân phối các
gói tới tầng TCP/IP và nhận các gói khác qua trình điều khiển card mạng. Việc này giúp
tăng tốc độ xử lý chung và giảm trễ do TCP/IP có thể xử lý gói trong khi trình điều khiển
NDIS (Network Driver Interface Specification) nhận gói tiếp theo. Trong quá trình gửi
gói, NLB cũng tăng cường thông lượng, giảm độ trễ và phụ phí (overhead) nhờ tăng số
lượng gói mà TCP/IP có thể gửi trong một kết nối.
Để có được những cải thiện về hiệu năng này, NLB thiết lập và quản lý một tập hợp các
bộ đệm gói và các ký hiệu (descriptor) được sử dụng để phối hợp các hoạt động của
TCP/IP và trình điều khiển NDIS.
3. Phân phối lưu lượng trong nhóm
NLB sử dụng hai lớp broadcast hoặc multicast để phân phối đồng thời lưu lượng mạng
đến tất cả các host trong nhóm. Trong chế độ hoạt động mặc định là unicast, NLB sẽ gán
địa chỉ trạm làm việc (địa chỉ MAC) cho card mạng để card mạng có thể hoạt động (card
này gọi là card nhóm ? cluster adapter), và tất cả các host trong nhóm được gán cùng một
địa chỉ MAC.
Các gói đến do đó được nhận bởi tất cả các host trong nhóm và chuyển gói tới trình điều
khiển cân bằng tải để lọc. Để đảm bảo tính duy nhất, địa chỉ MAC được dẫn xuất từ địa
Network Load Balancing 4

chỉ IP chính của nhóm. Ví dụ, với địa chỉ IP chính của nhóm là 1.2.3.4, địa chỉ MAC
unicast được đặt là 02-BF-1-2-3-4.
Trình điều khiển cân bằng tải sẽ tự động sửa địa chỉ MAC của card nhóm bằng cách thiết
lập một thực thể đăng ký và tái nạp trình điều khiển card nhóm. Hệ điều hành không cần
phải khởi động lại. Nếu các host trong cluster được gắn vào một thiết bị chuyển mạch
(swicth) chứ không phải một bộ tập trung (hub), việc sử dụng chung một địa chỉ MAC sẽ
gây ra xung đột do các chuyển mạch lớp 2 chỉ có thể hoạt động khi các địa chỉ MAC
nguồn trên tất cả các cổng của thiết bị chuyển mạch là duy nhất.
Để tránh điều này, NLB sửa địa chỉ MAC nguồn cho các gói đầu ra là duy nhất, địa chỉ
MAC của nhóm là 02-BF-1-2-3-4 được chuyển thành 02-h-1-2-3-4, trong đó h là mức ưu
tiên của host trong nhóm. Kỹ thuật này ngăn không cho thiết bị chuyển mạch tìm ra địa
chỉ MAC thực sự của nhóm và kết quả là các gói đến nhóm được phân phối tới tất cả các
cổng của thiết bị chuyển mạch.
Nếu các host trong nhóm được kết nối trực tiếp vào một hub, mặt nạ địa chỉ MAC nguồn
của NLB trong chế độ unicast có thể được vô hiệu hoá để tránh gây ra hiện tượng tràn
cho các thiết bị chuyển mạch ở đường lên (upstream). Điều này có thể thực hiện bằng
cách thiết lập tham số đăng ký NLB là MaskSourceMAC=0. Việc sử dụng hệ thống
chuyển mạch đường lên ba mức cũng có thể hạn chế tràn cho các thiết bị chuyển mạch.

Chế độ unicast của NLB có thể làm vô hiệu hoá quá trình trao đổi thông tin giữa các host
trong nhóm có sử dụng card nhóm. Khi các gói của một host được gửi đi với địa chỉ
MAC đích giống địa chỉ MAC nguồn, các gói này sẽ bị quay vòng (loop-back) giữa các
tầng giao thức mạng bên trong hệ thống phía gửi và không bao giờ ra đến đường truyền.
Hạn chế này có thể tránh được bằng cách thêm một card mạng thứ hai cho mỗi host.
Trong cấu hình này, NLB sử dụng một card mạng trên mạng con nhận các yêu cầu của
client và một card mạng khác thường được đặt tách biệt trên mạng con cục bộ để trao đổi
thông tin giữa các host trong nhóm và với các server cơ sở dữ liệu cũng như các file
server gốc. NLB chỉ sử dụng card nhóm để truyền các bản tin "heartbeat" và lưu lượng
điều khiển từ xa.
Chú ý rằng, trao đổi thông tin giữa các host trong nhóm và các host ngoài nhóm không
bao giờ bị ảnh hưởng bởi chế độ unicast của NLB. Lưu lượng mạng đến một địa chỉ IP
dành riêng cho host (trong card nhóm) được nhận bởi tất cả các host trong nhóm do
Network Load Balancing 5

chúng sử dụng chung một địa chỉ MAC. Do NLB không bao giờ cân bằng tải lưu lượng
đối với các địa chỉ IP dành riêng, NLB sẽ lập tức phân phối lưu lượng này đến TCP/IP
trên host đã định. Các host khác trong nhóm coi lưu lượng này là lưu lượng đã được cân
bằng tải và sẽ loại bỏ lưu lượng này. Chú ý, nếu lưu lượng mạng đến quá lớn đối với các
địa chỉ IP dành riêng có thể ảnh hưởng đến hiệu năng khi hệ thống NLB hoạt động trong
chế độ unicast (tuỳ theo sự cần thiết đối với TCP/IP trong việc loại bỏ các gói không
mong muốn).
NLB cung cấp chế độ thứ hai để phân phối lưu lượng mạng đến các host trong nhóm, chế
độ multicast. Chế độ này gán địa chỉ multicast 2 lớp cho card nhóm thay vì thay đổi địa
chỉ trạm làm việc của card. Ví dụ, địa chỉ MAC multicast sẽ được gán là 03-BF-1-2-3-4
tương ứng với địa chỉ IP chính là 1.2.3.4. Do mỗi host trong nhóm có một địa chỉ trạm
làm việc duy nhất, chế độ này không cần một bộ card mạng thứ hai để trao đổi thông tin
giữa các host trong nhóm và nó cũng không có bất cứ ảnh hưởng nào đến hiệu năng của
toàn hệ thống do việc sử dụng các địa chỉ IP dành riêng.
Chế độ unicast của NLB gây ra tràn trên switch do sự phân phối đồng thời lưu lượng
mạng trên tất cả các cổng. Tuy nhiên, chế độ multicast của NLB đưa ra cơ hội hạn chế
tràn switch để người quản trị hệ thống có thể cấu hình một mạng LAN ảo trên switch cho
các cổng tương ứng với các host. Có thể làm được điều này bằng cách lập trình cho
switch hoặc sử dụng giao thức IGMP hoặc giao thức GARP, GMRP.
NLB cần triển khai chức năng ARP để đảm bảo rằng địa chỉ IP chính của nhóm và các
địa chỉ IP ảo khác có thể phân giải sang địa chỉ MAC multicast của nhóm. (Địa chỉ IP
dành riêng sẽ tiếp tục phân giải sang địa chỉ trạm làm việc của card nhóm).
4. Thuật toán cân bằng tải
NLB sử dụng thuật toán lọc phân tán hoàn toàn để ánh xạ các client đến các host trong
nhóm. Thuật toán này cho phép các host trong nhóm đưa ra các quyết định cân bằng tải
một cách độc lập và nhanh chóng cho từng gói đến. Nó được tối ưu hoá để cung cấp khả
năng cân bằng tải một cách thống kê đối với một số lượng lớn các yêu cầu nhỏ do vô số
client tạo ra, điển hình là đối với các Web server.
Nếu số client hoặc các kết nối client tạo ra các tải quá chênh lệch nhau trên server, thuật
toán cân bàng tải sẽ ít hiệu quả. Tuy nhiên, tính đơn giản và tốc độ của thuật toán cho
phép cung cấp hiệu nǎng rất cao bao gồm cả thông lượng cao và thời gian đáp ứng ngắn
trong một dải rộng các ứng dụng client/server thông dụng.
Network Load Balancing 6

NLB xử lý các yêu cầu của client bằng cách dẫn đường cho một tỉ lệ phần trăm đã chọn
những yêu cầu mới cho từng host trong nhóm. Thuật toán không đáp ứng những thay đổi
về tải trên mỗi host (chẳng hạn như tải CPU hay vấn đề sử dụng bộ nhớ). Tuy nhiên, quá
trình ánh xạ sẽ được thay đổi khi quan hệ thành viên trong nhóm thay đổi và tỉ lệ phần
trăm tải phân bố sẽ được tái cân bằng.
Khi xem xét một gói đến, tất cả các host thực hiện đồng thời việc ánh xạ thống kê để xác
định nhanh chóng host nào sẽ xử lý gói đó. Quá trình ánh xạ sử dụng một hàm ngẫu
nhiên để tính mức ưu tiên của host dựa trên địa chỉ IP và cổng đến của client cùng các
thông tin trạng thái khác để tối ưu hoá việc cân bằng tải. Host tương ứng sẽ chuyển gói
đó từ các tầng dưới lên tầng TCP/IP còn các host khác sẽ loại bỏ gói này. Quá trình ánh
xạ không thay đổi trừ phi quan hệ giữa các host trong nhóm thay đổi, để đảm bảo rằng
địa chỉ IP và cổng đến của client cho trước sẽ luôn được ánh xạ đến cùng một host trong
nhóm.
Tuy nhiên, host cụ thể trong nhóm mà địa chỉ IP và cổng đến của client ánh xạ tới không
thể được xác định trước do hàm ngẫu nhiên có tính đến quan hệ thành viên trong nhóm
hiện tại và quá khứ để tối thiểu hoá khả năng ánh xạ lại.
Nhìn chung, chất lượng cân bằng tải được xác định một cách thống kê bởi số lượng client
tạo ra yêu cầu. Như kết cấu tăng giảm về số lượng client theo thống kê, sự đều đặn về
chất lượng của thuật toán cân bằng tải sẽ thay đổi nhẹ.
Để hoạt động cân bằng tải có độ chính xác cao trên mỗi host trong nhóm, một phần tài
nguyên hệ thống sẽ được sử dụng để đo và phản ứng trước những thay đổi của tải. Sự trả
giá về hiệu năng này phải được cân nhắc so với lợi ích của việc tối đa hoá khả năng sử
dụng các tài nguyên trong nhóm (về cơ bản là CPU và bộ nhớ).
Trong bất cứ trường hợp nào, việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên server phải được
duy trì để có thể phục vụ cho các tải client khác trong trường hợp xảy ra lỗi.
Khi một host mới tham gia vào nhóm, nó sẽ kích hoạt quá trình hội tụ và một quan hệ
thành viên mới trong nhóm sẽ được tính toán. Khi quá trình hội tụ hoàn thành, một phần
tối thiểu client sẽ được ánh xạ tới host mới. NLB dò các kết nối TCP trên mỗi host và sau
khi kết nối TCP hiện tại của chúng hoàn thành, kết nối tiếp theo từ các client bị ảnh
hưởng sẽ được xử lý bởi host mới.
Do đó, các host nên được bổ sung vào nhóm tại những thời điểm tải tăng quá mạnh nhằm
tối thiểu hoá hiện tượng ngắt quãng các phiên. Để tránh vấn đề này, trạng thái phiên phải
Network Load Balancing 7

được quản lý bởi ứng dụng server sao cho nó có thể được tái cấu trúc hay được trả lại từ
bất kỳ một host nào trong nhóm. Ví dụ, trạng thái phiên có thể được đẩy đến server cơ sở
dữ liệu và lưu trong các cookies của client.
5. Quá trình hội tụ
Các host trong nhóm trao đổi định kỳ các bản tin "heartbeat" multicast hoặc broadcast với
nhau. Điều này cho phép các host có thể giám sát trạng thái của nhóm. Khi trạng thái của
nhóm thay đổi (chẳng hạn như khi có host gặp trục trặc, rời khỏi hoặc tham gia vào
nhóm), NLB kích hoạt một chu trình gọi là hội tụ trong đó các host trao đổi bản tin
"heartbeat" để định ra một trạng thái mới, bền vững cho nhóm. Khi tất cả các đạt được sự
"nhất trí" trạng thái mới của chúng sẽ được thiết lập và những thay đổi này sẽ được lưu
vào nhật ký sự kiện.
Trong quá trình hội tụ, các host tiếp tục xử lý lưu lượng mạng đến như mọi khi ngoại trừ
lưu lượng đến host bị lỗi không nhận được dịch vụ. Quá trình hội tụ kết thúc khi tất cả
các host trong nhóm có được một quan hệ thành viên ổn định trong vòng một vài chu kỳ
heartbeat.
Khi hoàn thành quá trình hội tụ, lưu lượng đến host bị lỗi sẽ được tái phân phối cho các
host còn lại. Nếu một host được thêm vào nhóm, quá trình hội tụ cho phép host này nhận
được phần tải của nó trong lưu lượng đã được cân bằng.
Việc mở rộng nhóm không ảnh hưởng đến các hoạt động của nhóm và theo một cách
hoàn toàn trong suốt đối với tất cả các Internet client cũng như trước các chương trình
phần mềm server. Tuy nhiên, nó có thể ảnh hưởng đến các phiên client vì các client có
thể phải tái ánh xạ tới các host khác trong nhóm.
Trong chế độ unicast, mỗi host sẽ phát quảng bá (broadcast) bản tin "heartbeat" theo chu
kỳ. Còn trong chế độ multicast, nó sẽ phát các bản tin này ở chế độ multicast. Mỗi bản tin
"heartbeat" chiếm một khung Ethernet và được gắn thêm địa chỉ IP chính của nhóm nhằm
cho phép nhiều nhóm có thể cùng tồn tại trên cùng một mạng con. Bản tin "heartbeat"
của NLB của Microsoft được gán một giá trị 0x886F. Chu kỳ gửi các bản tin này mặc
định là 01 giây. Giá trị này có thể thay đổi.
Trong quá trình hội tụ, chu kỳ này được giảm xuống chỉ còn một nửa để đẩy nhanh việc
hoàn tất quá trình này. Thậm chí, đối với các cluster lớn, băng thông cần thiết để truyền
các bản tin "heartbeat" rất thấp (24kBytes/s cho một cluster 16 đường). Để có thể khởi
Network Load Balancing 8

tạo quá trình hội tụ, theo mặc định cần 05 bản tin heartbeat không được nhận. Giá trị này
có thể thay đổi.
6. Điều khiển từ xa
Cơ chế điều khiển từ xa của NLB sử dụng giao thức UDP và được gán cổng dịch vụ
#2504. Các gói dữ liệu điều khiển từ xa được gửi tới địa chỉ IP chính của nhóm. Do trình
điều khiển trên mỗi host trong nhóm xử lý các gói này, chúng cần được định tuyến tới
mạng con của nhóm (thay vì tới một mạng con gốc mà nhóm đó gắn vào). Khi các lệnh
điều khiển từ xa được đưa ra trong nhóm, chúng sẽ được phát quảng bá trên mạng con
cục bộ.
Điều này đảm bảo tất cả các host trong nhóm đều có thể nhận được chúng ngay cả khi
nhóm chạy trong chế độ unicast.
7. Hiệu năng cân bằng tải
Vai trò của NLB tác động đến hiệu năng của hệ thống có thể được đánh giá dựa trên bốn
tiêu chí chính sau:
- CPU overhead trên các host của nhóm - Phần trăm CPU cần thiết để phân tích và lọc
các gói của mạng (càng thấp càng tốt).
Tất cả các giải pháp cân bằng tải đều cần sử dụng một phần tài nguyên của hệ thống để
xem xét gói đến và đưa ra quyết định cân bằng tải và do đó ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu
năng của mạng.
Giải pháp cân bằng tải dựa trên bộ điều phối cần kiểm tra, hiệu chỉnh và truyền lại gói tới
các host trong nhóm (thường phải sửa đổi lại địa chỉ IP để tái định tuyến gói từ địa chỉ IP
ảo tới địa chỉ IP của từng host cụ thể). Đối với NLB, nó phân phối đồng thời các gói đến
tới tất cả các host trong nhóm và áp dụng một thuật toán lọc để loại bỏ các gói không
mong muốn...
Quá trình lọc gây ảnh hưởng ít hơn so với quá trình tái định tuyến và kết quả là thời gian
đáp ứng nhanh hơn với thông lượng toàn hệ thống cao hơn.
8. Thông lượng và thời gian đáp ứng yêu cầu
NLB nâng cao hiệu năng hệ thống bằng cách tăng thông lượng và tối thiểu hoá thời gian
đáp ứng tới các yêu cầu của client. Khi năng lực của các host trong nhóm được khai thác
tối đa, nó sẽ không thể cung cấp thêm thông lượng và thời gian đáp ứng tăng đột biến tuỳ
Network Load Balancing 9

theo độ trễ hàng đợi các yêu cầu của client. Bổ sung thêm host sẽ cho phép tăng thông
lượng và giảm thời gian đáp ứng.
Nếu nhu cầu của khách hàng tiếp tục tăng, các host sẽ được thêm vào cho đến khi mạng
con bão hoà. Và nếu tải tiếp tục tăng, cần sử dụng nhiều nhóm NLB và việc phân phối
lưu lượng giữa các host được thực hiện bằng kỹ thuật Round Robin DNS.
- Băng thông sử dụng của Switch (Switch occupancy): Tỉ lệ băng thông của switch được
sử dụng bởi quá trình làm tràn các yêu cầu của client.
Kiến trúc lọc gói của NLB dựa trên mạng con broadcast để phân phối các yêu cầu của
client tới tất cả các host cùng lúc. Trong các nhóm nhỏ, có thể sử dụng hub để kết nối các
host. Với các nhóm lớn hơn, switch sẽ là sự lựa chọn. Và như mặc định, NLB sẽ tạo ra
hiện tượng "tràn" switch để có thể phân phối các yêu cầu của client tới tất cả các host
cùng lúc.
Cần chắc chắn rằng hiện tượng "tràn" switch không được vượt quá năng lực của switch,
đặc biệt khi switch được chia sẻ giữa nhóm và các máy tính ngoài nhóm. Bình thường,
băng thông sử dụng cho lưu lượng yêu cầu của client chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng
lượng băng thông cần thiết cho quá trình truyền thông giữa server và client.
Tuy nhiên quá trình "tràn" switch sẽ trở thành vấn đề trong những ứng dụng có tỉ lệ phần
trăm đáng kể lưu lượng mạng được dẫn tới nhóm (chẳng hạn như quá trình upload file
trong các ứng dụng FTP) hay khi nhiều nhóm sử dụng chung một switch. Trong những
trường hợp này, chạy NLB trong chế độ multicast và thiết lập mạng LAN ảo để hạn chế
tràn switch là biện pháp khắc phục rất hiệu quả khiếm khuyết này. Ngoài ra, tính khả mở
của NLB quyết định khả năng cải thiện hiệu năng của hệ thống khi các host được thêm
vào nhóm.

Sponsor Documents

Or use your account on DocShare.tips

Hide

Forgot your password?

Or register your new account on DocShare.tips

Hide

Lost your password? Please enter your email address. You will receive a link to create a new password.

Back to log-in

Close